Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, thế hệ trẻ ngày nay lại hời hợt về lịch sử của chính mình. Để tiện cho việc tìm hiểu và tra cứu lịch sử các đời vua Việt Nam Triều Nguyễn bài viết xin vắn tắt một số thông tin dưới đây.
Mục Lục
Tóm tắt lịch sử các đời vua việt nam triều Nguyễn
Nhà Nguyễn (1802 – 1945) được thành lập sau khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, gồm có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Đây là triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử và cũng là triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
1. Vua Gia Long (1802-1819)
Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762), mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), là con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn.
Ngày 1-2-1802, ông lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Ông làm vua được 18 năm (1802-1819), sau khi mất, bài vị của ông được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng đế.
2. Vua Minh Mạng (1820-1840)
Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu, sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25-5-1871), là con thứ 4 của vua Gia Long. Ông lên ngôi vào năm 1820, làm vua được 21 năm (1820-1840). Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng, lãnh thổ Việt Nam dưới thời của ông được mở rộng nhất trong lịch sử và đưa Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-1-1841), hưởng thọ được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với Miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
3. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-6-1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông Kinh Thành Huế, là con trưởng của vua Minh Mạng. Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11-2-1841), làm vua được 7 năm (1841-1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4-10-1847), hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị của ông được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế.
4. Vua Tự Đức (1848-1883)
Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (22-9-1829), là con thứ 2 của vua Thiệu Trị. Ông lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847-1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19-7-1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng đế.
5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày)
Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11-2-1853), là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y. Năm 1869, lúc ông được 17 tuổi vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên trông coi, dạy bảo.
Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu thì hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ theo lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức).
6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng).
Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi (1-1-1847), con thứ 29 của vua Thiệu Trị. Sau khi vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu Hiệp Hòa. Do có ý thân Pháp, vua lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883).
7. Vua Kiến Phúc (1883-1884)
Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869), con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai. Năm 1870 lúc được 2 tuổi, ông được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, ông được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất lúc mới 16 tuổi. Sau khi vua mất, bài vị được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.
8. Vua Hàm Nghi (1884-1885)
Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871), ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai. Sau khi vua Kiến Phúc mất, Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.
Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888, một tên người hầu của vua là Trương Quang Ngọc bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt ông dâng cho Pháp. Ông bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889 và sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi.
9. Vua Đồng Khánh (1886-1888)
➤ Xem thêm: Lịch sử dựng nước vua hùng để hiểu hơn lịch sử dựng nước của cha ông ta
Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, sinh ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864), là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai. Năm 1865 lúc được 2 tuổi được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế đã thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh. Ở ngôi được 3 năm, vua bị bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi. Sau khi mất, bài vị của ông được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
10.Vua Thành Thái (1889-1907)
Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, con thứ 7 của vua Dục Đức, sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14-3-1879). Sau khi vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi với niên hiệu là Thành Thái. Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ và có tư tưởng chống Pháp, vì vậy sau 19 năm ở ngôi dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị.
11. Vua Duy Tân (1907-1916)
Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900), con thứ 5 của vua Thành Thái. Năm 1907, khi vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đã đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi.
Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp, nhà vua đã cùng với Trần Cao Vân, Thái Phiên, … vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua bị Pháp bắt và bị kết tội đày sang đảo Réunion. Ông mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy bay khi được 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi.
12. Vua Khải Định (1916-1925)
Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, con trưởng của vua Đồng Khánh, sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885). Sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, người Pháp và triều đình Huế lập ông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Khải Định.
Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu, thọ 41 tuổi. Sau khi chết, bài vị được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế.
13. Vua Bảo Đại (1926-1945)
Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, là con độc nhất của vua Khải Định, sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913). Ông được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi, khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại. Sau đó ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.
Ông ở ngôi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Chế độ phong kiến chấm dứt, ông sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó.
Trên đây là những tóm tắt về lịch sử các đời vua Việt Nam ở triều Nguyễn. Hy vọng những thông tin này sẽ hữu ích giúp bạn đọc có thể củng cố thêm kiến thức về lịch sử của dân tộc.